XÃ HỘI – PHÁP LUẬT

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 - giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại đối với dân tộc Việt Nam
Cập nhật lúc 08:43 ngày 31/08/2021 - Số lượt xem: 884


Đáp ứng lời kêu gọi của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, Nhân dân ta triệu người như một đã tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.


Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: Tư liệu/TTXVN.

Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là một văn kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc ta. Đây cũng chính là Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của tất cả các dân tộc vì nó không chỉ là những nguyên tắc pháp lý về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ mà còn khẳng định quyền dân tộc và quyền cơ bản của con người.

 Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn một đoạn nổi tiếng trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ:“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [1, tr.1]. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích một câu bất hủ trong Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” [1, tr.1]. Từ đó, Người đi đến khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”“đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” [1, tr.1]. Với lập luận này, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn khẳng định với thế giới rằng: Cách mạng Việt Nam là sự nối tiếp của con đường phát triển của lịch sử nhân loại. Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp năm 1791 là những mốc son của sự nghiệp giải phóng con người, thì Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam chính là bước đi tiếp theo của quá trình giải phóng con người.

Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết tội thực dân Pháp đã xâm phạm quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Thực dân Pháp đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”[1, tr.1]. Hàng loạt tội ác của thực dân Pháp đối với Nhân dân ta bị phơi bày và lên án, khiến chúng không thể chối cãi: Về chính trị, “Chúng tuyệt đối không cho Nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu…”. Về kinh tế, “Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều, chúng cướp không hầm mỏ, ruộng đất, nguyên liệu…” [1, tr.2]. Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã quỳ gối đầu hàng, “bán nước ta cho Nhật”. Từ đó, Nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích là thực dân Pháp và phát xít Nhật, đời sống vô cùng khổ cực. Sau ngày 09/3/1945, thực dân Pháp tháo chạy nhưng “chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng” [1, tr.1]. Tuy nhiên, chúng ta vẫn “giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo” đối với người Pháp:“Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” [1, tr.1].

 Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và của chế độ phong kiến thì dân tộc ta đánh đổ các xiềng xích đó để xây dựng nước Việt Nam độc lập là hợp lẽ phải, phù hợp với lý tưởng chung của nhân loại về quyền con người và quyền dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn rằng các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới phải công nhận độc lập, tự do của Việt Nam. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, trong thư gửi Liên Hợp quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam” [1, tr.3].

Kết thúc Tuyên ngôn Độc lập, Người khẳng định ý chí đanh thép, thể hiện sâu sắc khát vọng và quyết tâm giành và giữ độc lập, tự do của Nhân dân ta: “Một dân tộc đã có gan góc chống áp bức nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập” [1, tr.3],“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [1, tr.3].

Trước thế giới, Tuyên ngôn độc lập là hòn đá tảng pháp lý đầu tiên khẳng định cả trên nguyên tắc và thực tế, thể hiện quyết tâm sắt đá của Nhân dân Việt Nam về quyền được sống trong độc lập, tự do và hạnh phúc, về quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam với tất cả các dân tộc trên thế giới. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi mọi áp bức bóc lột, thực hiện các quyền dân chủ cơ bản cho mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam mà còn đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc trên thế giới. Đây là quan điểm quốc tế đầy tính nhân văn của Hồ Chí Minh. Vì vậy, Tuyên ngôn độc lập của Người được coi là bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của các dân tộc đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc và văn minh. Đúng như Rômét Chanđra, nguyên Chủ tịch Hội đồng hòa bình thế giới đã đánh giá: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chi Minh bay cao. Bất cứ nơi đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngon cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao” [3, tr.90].

Trải qua 76 năm kể từ ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã tạo nên những kỳ tích mới, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc, chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên các lĩnh vực,“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [2, tr.25]. Hiện tại, trong bối cảnh đất nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ, thách thức đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, tình hình quốc tế, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, đặc biệt tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Quán triệt tinh thần độc lập, tự do, bình đẳng dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định quan điểm chỉ đạo:“Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [2, tr.33]. Từ đó, Đảng đề ra phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới:“Giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển” [2, tr.48].

Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo và trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới ngày 02/9/1945 không chỉ phản ánh ý chí khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam mà còn là cột mốc đánh dấu bước ngoặt lịch sử, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 luôn mãi trường tồn cùng dân tộc Việt Nam, góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc hiện nay.

ThS Triệu Thanh Sơn

Trường Chính trị thành phố Cần Thơ

-------------------

Tài liệu tham khảo

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

3. Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb. Lao động – Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.





Chia sẻ bài viết:  
  In bài viết