Chính trị, xây dựng đảng, đưa nghị quyết vào cuộc sống

Những điểm mới trong lĩnh vực Khoa giáo theo Văn kiện đại hội XIII của Đảng
Cập nhật lúc 09:14 ngày 24/06/2021 - Số lượt xem: 561


Về thuật ngữ, khoa giáo là cách nói ngắn ngọn của của lĩnh vực khoa học và giáo dục; còn về công tác khoa giáo là lĩnh vực công tác tham mưu xây dựng chủ trương, quan điểm của Đảng trên các lĩnh vực giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), khoa học và công nghệ (KH&CN), trí thức, y tế, dân số, vấn đề chăm sóc sức khỏe Nhân dân, thể dục, thể thao, hiện nay ở địa phương còn có nội dung công tác về tài nguyên và môi trường. Có thể thấy, công tác khoa giáo là một lĩnh vực rất rộng, phức tạp; để triển khai thực hiện theo kịp thực tiễn, bài viết tổng hợp vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác khoa giáo hiện nay như: vấn đề liên quan đến giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; tài nguyên và môi trường; thực tiễn tình hình xã hội và đời sống Nhân dân…trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.


Công tác giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức góp phần xây dựng đất nước phát triển, khởi sắc. Ảnh minh họa: PV.

1. Vấn đề giáo dục và đào tạo

1.1. Thực trạng vấn đề giáo dục và đào tạo theo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác GD&ĐT đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Đã ban hành chương trình giáo dục phổ thông mới (năm 2018), trong đó chuyển dần từ việc cung cấp kiến thức, kỹ năng sang phát triển năng lực, phẩm chất học sinh; chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao, được nhiều nước trên thế giới đánh giá cao và quan tâm nghiên cứu; thực hiện cơ chế tự chủ, xã hội hóa đối với một số cơ sở GD&ĐT, thí điểm với các cơ sở giáo dục đại học công lập theo hướng tự chủ; tiến hành chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo các cấp; triển khai tích cực công tác kiểm định chất lượng giáo dục và công khai kết quả thực hiện; giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông đã được quan tâm hơn, góp phần chuyển biến mạnh mẽ công tác phân luồng cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông; khuyến khích, hỗ trợ khởi nghiệp đối với học sinh, sinh viên, được đẩy mạnh triển khai thực hiện; rà soát, quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở GD&ĐT, dạy nghề; đầu tư trọng tâm, trọng điểm các trường, các ngành tiến tới đạt chuẩn khu vực và thế giới; nhiều cơ sở GD&ĐT có cơ chế khuyến khích sinh viên, học vinh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là thông qua quỹ phát triển khoa học, công nghệ; trong thời gian dịch bệnh COVID - 19, ngành GD&ĐT đã bước đầu tiếp cận dạy và học qua Internet, truyền hình với nhiều hình thức khác nhau…

Tuy nhiên, Đảng ta cũng rút ra một số hạn chế trong công tác GD&ĐT, như: Đổi mới tư duy, hoạt động GD&ĐT còn chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một số nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định; hệ thống GD&ĐT chưa đảm bảo tính đồng bộ và liên thông giữa các trình độ, các phương thức GD&ĐT; đào tạo vẫn thiếu gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ; quản lý Nhà nước và quản lý - quản trị nhà trường còn nhiều hạn chế; nguy cơ tái mù chữ có xu hướng tăng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

1.2. Về mặt lý luận

Nếu so với nhiệm kỳ 2016-2020 lần này, quan điểm của Đảng có sự cập nhật, mở rộng nhiều vấn đề như: (1) Tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của GD&ĐT, yêu cầu phải “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương GD&ĐT cùng với KH&CN là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”, trước đây chỉ đề cập phương hướng chung “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. (2) Phải “Triển khai có hiệu quả hệ thống giáo dục quốc dân mới theo các mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Đa dạng hóa phương thức đào tạo dựa theo mô hình giáo dục mở, khung trình độ quốc gia, gắn với thị trường và đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” - tức là, nhấn mạnh GD&ĐT phải thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. (3) Cụ thể hóa yêu cầu hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, sắp xếp lại hệ thống trường học, phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập; giữa các vùng miền; ưu tiên các vùng khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo…

1.3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp

Trước hết, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định các mục tiêu sau: (1) Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. (2) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng nhân tài.

Cùng với đó, cần thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp, như: Đa dạng hóa phương thức đào tạo dựa theo mô hình giáo dục mở, khung trình độ quốc gia, gắn với thị trường và đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số; rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở GD&ĐT trên cả nước đáp ứng yêu cầu học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập và gắn với quy hoạch nguồn nhân lực và phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng, liên thông trong GD&ĐT gắn với nhu cầu của xã hội; tăng cường đào tạo thường xuyên và đào tạo lại cho người lao động; đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong GD&ĐT; thực hiện lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân; tiến tới phổ cập trung học phổ thông gắn với phân luồng trong giáo dục; giảm tỷ lệ mù chữ, bỏ học ở miền núi; thực hiện phổ cập, xóa mù về công nghệ thông tin, tri thức công nghệ cho người dân; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT; tăng cường công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục; xếp hạng các trường đại học; quy hoạch mạng lưới các sở giáo dục đại học, chú trọng các trường sư phạm, trường y; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo tiêu chuẩn khu vực và thế giới, ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ; nâng cao chất lượng dạy, học ngoại ngữ ở các cấp học và trình độ đào tạo; coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Ngoài ra, còn phấn đấu duy trì chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm cao của thế giới (trên 0,7); số sinh viên đại học đạt 270 sinh viên trên 1 vạn dân vào năm 2025.

2. Vấn đề khoa học và công nghệ

2.1. Thực trạng vấn đề khoa học và công nghệ theo đánh giá của Đảng tại Đại hội XIII

Công tác phát triển KH&CN từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế xã hội; tiềm lực KH&CN của đất nước được tăng cường; khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực hơn trong nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân dân, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội; khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách bảo vệ phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc; hiệu quả hoạt động KH&CN tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động đổi mới và trải nghiệm sáng tạo; quản lý Nhà nước về KH&CN trong công cuộc đổi mới; một số cơ chế chính sách để phát triển quản lý KH&CN, cơ chế chính sách quản lý nguồn vốn đầu tư tài chính bắt đầu phát huy tác dụng.

Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đưa ra nhiều mặt hạn chế trong công tác phát triển KH&CN, như: Việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển và ứng dụng KH&CN còn hạn chế, thiếu thể chế về tài chính, chuyển giao ứng dụng phát triển KH&CN nhất là công nghệ cao, thiếu giải pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương; cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt động KH&CN còn nặng về hành chính hóa, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo của nhân tài; đầu tư cho KH&CN còn thấp, hiệu quả chưa cao, năng lực sáng tạo của các nhà khoa học chưa được phát huy; chưa có chính sách hợp lý về vay vốn, thuế hỗ trợ phát triển tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ; hệ thống thông tin, thống kê KH&CN chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phục vụ việc xây dựng các chiến lược chính sách; bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa đạt yêu cầu, chưa gắn kết chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên, khoa học - công nghệ và khoa học xã hội - nhân văn, khoa học lý luận chính trị để phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước.

2.2. Nhiệm vụ, giải pháp

Từ việc xác định “Thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ”, nhằm thực hiện thành công định hướng phát triển giai đoạn 2021-2025, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so khu vực và thế giới”; với 07 nhiệm vụ và giải pháp cụ thể: Một là, tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Hai là, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để KH&CN và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu thực sự là động lực chính của tăng trường kinh tế, tạo bứt phá; Ba là, thực hiện chuyển đổi số quốc gia trong quản trị quốc gia, quản trị Nhà nước, sản xuất kinh doanh, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc gia; Bốn là, cơ cấu lại toàn diện hệ thống các cơ sở nghiên cứu KH&CN công lập; đổi mới cơ chế hoạt động và chất lượng của hai Viện hàn lâm; Năm là, hiệu quả chính sách đào tạo, trọng dụng cán bộ KH&CN; Sáu là, phát triển mạnh thị trường KH&CN, đặc biệt là mạng lưới các tổ chức trung gian, môi giới đánh giá chuyển giao công nghệ, hỗ trợ nghiên cứu giải mã, làm chủ công nghệ được chuyển giao ở trong nước và từ nước ngoài; Bảy là, xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó, tập trung vào các công nghệ lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đẩy mạnh đẩy nhanh thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia trước mắt tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

3.1. Về mặt thực tiễn

Thời gian qua, công tác ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã được quan tâm, có bước chuyển biến và đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng:

Một là, công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có nhiều chuyển biến rõ rệt, phát hiện và xử lý kịp thời nhiều vụ việc, sơ cở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, trong đó: (1) Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đến năm 2020 đạt khoảng 90%, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước ăn uống hợp vệ sinh ước đạt 90,2%, tăng mạnh so với năm 2015 là 86,2%. (2) Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường năm 2020 là 90%; tỷ lệ rừng che phủ đến năm 2020 khoảng 42%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.

Hai là, việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sẵn sàng phòng, chống thiên tai kịp thời hiệu quả, như: (1) Triển khai Chương tình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh, chủ động cam kết giảm thiểu phát thải khí nhà kính. (2) Đã xây dựng Chương trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước biển dâng, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn và Đề án phát triển đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khi hậu. (3) Đã tập trung xây dựng chương trình phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng, khu vực, như vùng đồng bằng sông Cửu Long. (4) Nâng cao năng lực thích ứng bảo đảm sinh kế cho người dân ở những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu được đẩy mạnh.

Tuy nhiên, việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản; tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững, một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt; ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng. Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu còn thấp; vai trò trách nhiệm các cấp ủy Đảng các ngành cộng đồng và doanh nghiệp chưa được phát huy đầy đủ; vẫn để xảy ra một số sự cố môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Các chế tài để ngăn ngừa, xử lý các hành vi vi phạm chưa đủ sức răn đe và thiếu hiệu quả quản lý Nhà nước về tài nguyên môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trên một số mặt còn lỏng lẻo. Chất lượng công tác quy hoạch, đánh giá, định giá tài nguyên còn hạn chế; xu hướng chạy theo lợi nhuận và lợi ích trước mắt trong khai thác tài nguyên chậm được khắc phục. Chậm chuyển đổi cơ cấu sử dụng năng lượng năng lượng theo hướng tiết kiệm tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo năng lượng mới. Chất lượng môi trường một số nơi tiếp tục xuống cấp, thích ứng với biến đổi khí hậu còn bị động, các hệ sinh thái tự nhiên đa dạng sinh học bị suy giảm; ngành công nghiệp và dịch vụ môi trường tái chế chất thải, xử lý rác thải chậm phát triển, còn là khâu yếu; tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu máy móc thiết bị nguyên liệu vật liệu không đạt chuẩn về môi trường chậm được khắc phục.

3.2. Mục tiêu và giải pháp chủ yếu

Trước hết, nhằm nâng cao việc quản lý tài nguyên môi trường, Đảng đã đưa ra mục tiêu, trong giai đoạn 2021-2025 “Chú trọng bảo vệ môi tường và ứng phó với biến đổi khí hậu” và những mục tiêu cụ thể như: (1) Tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của cư dân thành thị là 95-100% và nông thôn là 93-95%. (2) Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%. (3) Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 92%. (4) Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%. (5) Tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%. (6) Phấn đấu đến năm 2025: Tỷ lệ chất thải y tế được xử lý 100%; tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lược tiêu thụ cuối cùng là 31,5%.

Về các giải pháp chủ yếu, các văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: Một là, xây dựng chiến lược hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất đai; Hai là, xây dựng chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia, với việc hoàn thiện chính sách pháp luật nhất là cơ chế tài chính về khai thác sử dụng tài nguyên nước, đảm bảo công bằng hiệu quả bền vững trên nguyên tắc của kinh tế thị trường và quản lý nguồn nước, bảo đảm an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt; Ba là, xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên môi trường và biến đổi khí hậu; Bốn là, chủ động tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin phối hợp nghiên cứu quản lý khai thác và sử dụng hiệu quả bền vững các nguồn tài nguyên.

4. Thực tiễn tình hình xã hội và đời sống Nhân dân

Bên cạnh các nội dung nêu trên, công tác khoa giáo còn có các lĩnh vực liên quan đến các vấn đề xã hội, chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Có thể nói, về lĩnh vực xã hội, lần đầu tiên Đại hội XII đã diễn đạt theo cách tiếp cận mới là “quản lý xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hôị” - thể hiện nhận thức mới của Đảng ta, cụ thể, nhiệm kỳ qua đã đạt được các kết quả như:

Một là, về cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, xuất khẩu lao động có bước đột phá, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện và bảo đảm, như: (1) Thực hiện nhiều giải pháp cơ cấu lại lao động, giải quyết việc làm cho người lao động trong nước và đưa người lao động đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài; đã đẩy mạnh thực hiện các chính sách an sinh xã hội. (2) Diện bao phủ bảo hiểm xã hội được mở rộng, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội năm 2020 đạt 32,7%; mở rộng đối tượng trợ cấp xã hội. (3) Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được triển khai mạnh mẽ, chuyển từ cách tiếp cận đơn chiều sang đa chiều, tập trung vào nhóm, hộ nghèo nhất; đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. (4) Chế độ, chính sách đối với người có công được mở rộng về đối tượng thụ hưởng với mức trợ cấp được nâng lên hàng năm, đặc biệt là tập trung giải quyết quyền trẻ em; đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cộng đồng từng bước được cải thiện. (5) Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cải thiện; tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng và sự lãnh đạo của Đảng Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo.

Hai là, đối với công tác y tế và chăm sóc sức khỏe Nhân dân ngày càng được tăng cường, chất lượng dân số từng bước được cải thiện, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh được nâng cao và từng bước giải quyết tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên, cụ thể: (1) Chất lượng dân số được cải thiện, tuổi thọ trung bình đấn năm 2020 ước đạt khoảng 73,7 tuổi (năm 2015 tuổi thọ là 73,3 tuổi). (2) Hệ thống y tế dự phòng từ Trung ương đến địa phương và mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục củng cố và phát triển; từng bước kiểm soát được dịch bệnh COVID-19, không để lây lan trên diện rộng, được ghi nhận, đánh giáo cao; tỷ lệ bác sĩ trên 1 vạn dân tăng từ 8,2 bác sĩ năm 2016 lên 9 bác sĩ trên 1 vạn dân vào năm 2020, đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Đối với các yêu cầu trong nhiệm kỳ 2021-2025, Báo cáo chính trị của Đảng nhất mạnh “bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội”, trong đó “tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người”; nhấn mạnh về chính sách huy động và phân bổ các nguồn lực cho các vấn đề xã hội; lần đầu tiên các văn kiện của Đại hội XIII đề cập đến vấn đề dân số vàng, già hóa dân số…

Như vậy, phát triển GD&ĐT, KH&CN, ứng phó với biến đổi khí hậu, tình hình xã hội và đời sống Nhân dân… là những mục tiêu cơ bản, không kém phần quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì thế, chúng ta cần phát triển các lĩnh vực nêu trên một cách song song, đồng bộ, bảo đảm sự cân đối nhịp nhàng để tạo ra động lực cho quá trình phát triển; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với các mốc phát triển cụ thể: Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Ngọc Quy

-----------------------

Tài liệu tham khảo

(1) Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Tuyên giáo ở cơ sở (Dành cho cấp ủy và cán bộ tuyên giáo cơ sở), Nxb Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội 2020.

(2) Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu học tập các Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội 2021.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1 và 2), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021.

(4) Hội Đồng lý luận Trung ương, Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021.





Chia sẻ bài viết:  
  In bài viết